Thứ Năm, 22 tháng 4, 2010

Niên Sử Thiếu Lâm Tự

Chính Quang sơ (năm 520) :

Đệ tử cả của Bạt Đà đại sư là Tăng Chu lên trụ trì Thiếu Lâm Tự.

Đông Ngụy Thái Bình sơ (năm534-536) :

Bồ Đề Lạt Ma hành hóa ở địa khu Lạc Hà. Sau khi viên tịch được lập bia ở chùa Không Tương thuộc núi Hùng Nhĩ.

Bắc Tề

Càn Minh năm thứ 1 (năm 560):

Tăng Chu viên tịch, có “Chỉ Quan Pháp” hành thế.

Bắc Chu Thừa Quang năm thứ 1 (năm 577):

Chu Võ Đế hạ chiếu hủy Phật pháp, Thiếu Lâm Tự bị phế.

Đại Tượng năm thứ 2 ( năm 580):

Chu Tĩnh Đế hạ chiếu hưng phục Đạo Phật và Đạo Giáo. Thiếu Lâm Tự được khôi phục, đổi tên là Bộ Cô Tự.

Tùy Khai

Hoàng năm thứ 1 ( năm 580) : Khôi phục lại tên của Thiếu Lâm Tự Khai Hoàng trung (năm 581-600):

Tùy Văn Đế cấp trăm mẫu đất Bát Cốc Ô cho Thiếu Lâm Tự

Đại Nghiệp năm thứ 14 (năm 618) :

Thiên hạ đại loạn. Thiếu Lâm Tự bị sơn tặc quấy nhiễu. Tăng đồ đấu tranh kháng cự, tháp viện bị hủy hoại, Linh Tháp được bảo vệ và bảo tồn đến ngày nay.

Đường

Võ Đức năm thứ 4 (năm 621): Ngày 27/4 Thượng tọa Thiên Hộ cùng 13 sư tăng tấn công thành Hoài Châu, lật đổ Tư Mã Triệu và cháu của Vương Thế Xung là Vương Nhân Tắc, lập công cho nhà Đường. Ba ngày sau, Lý Thế Dân (vua Đường) đến Thiếu Lâm Tự ban thưởng cho sư tăng.

Võ Đức năm thứ 5 (năm 622) : Thiếu Lâm Tự bị coi là đất thuộc Trịnh nên bị phế bỏ khỏi Tỉnh.

Võ Đức năm thứ 7 (năm 624) : Sư tăng không đồng ý cắt bỏ khỏi Tỉnh. Đến tháng 7 Thiếu Lâm Tự được đồng ý giữ ở vị trí cũ.

Võ Đức năm thứ 8 ( năm 625) : Tháng 2, cấp lại cho Thiếu Lâm Tự 24 ha đất tại Bách Cốc cùng một hệ thống thủy lợi.

Hàm Hanh trung (năm 670-674) : Cao Tông Tuần thăm Thiếu Lâm Tự, ngự bút viết “Kim Tự Ban Nhược Bia”, lưu tượng cùng thí vật.

Hoằng Đạo năm thứ 1 ( năm 683) : Thiền Tông đại sư Pháp Như vào Thiếu Lâm Tự. Ngày 25/9, Võ Tắc Thiên quyên lễ vật, tặng vàng cho Thiếu Lâm Tự, lập “Đại Đường Thiên Hậu Ngự Chế Nguyện Văn” làm công đức, tưởng nhớ đến thân mẫu Dương Thị đã khuất.

Tự Thánh năm thứ 1 ( năm 684) : Cao Tông Hồng, Võ Tắc Thiên đến Thiếu Lâm Tự tạo công đức.

Vĩnh Xương năm thứ 1 (năm689) : Pháp Như viên tịch, lập tháp tại phía Đông của chùa.

Khai Nguyên năm thứ 11 (năm 723) : Tháng 11, Huyền Tông ngự thư và đề “Thái Tông Giáo Thư” ban tặng Thiếu Lâm Tự.

Khai Nguyên năm thứ 16 (năm 728) : Ngày 15/7 Thiếu Lâm Tự lập “ Hoàng Đường Tung Nhạc Thiếu Lâm Tự bia”.

Kim

Kim sơ: Trụ trì Tổ Đoạn lập “ Diệu Sắc Na La Diên Kim Cương thần tượng bia”.

Hưng Định năm thứ 4 (năm 1220): Trụ trì Chí Long sáng lập “Dược Cục”.

Nguyên Mông

Xưng Chế năm thứ 1 (năm 1242) : Tào Động Tông Tông sư phái đại đồ đệ Phúc Cốc trụ trì Thiếu Lâm Tự.

Xưng Chế năm thứ 4 (năm 1245) : Phúc Cốc nhận lệnh của Hốt Tất Liệt tổ chức đại hội Tư Giới tại Thiếu Lâm Tự.

Định Tông năm thứ 3 (năm 1248) : Phúc Cốc làm tổng đốc Đô Tăng, thu hồi Phật Tự tổng cộng 237 nơi.

Hiến Tông năm thứ 8 (năm 1258) : Hốt Tất Liệt cử hành Phật, Đạo tranh tài biện luận. Phúc Cốc đại sư dẫn đầu tăng giới tham gia tranh tài, Đạo sĩ thất bại.

Trung Thống năm thứ 1 (năm 1260) : Phúc Cốc vinh dự được công nhận là “ Quang Tông Chính Pháp Đại Thiền Sư”, đồng thời trụ trì chùa Đại Vạn Thọ 14 năm. Cùng năm đó chia Kiến Hòa Lâm, Yến Kế, Trường An, Thái Nguyên và Lạc Dương thành Ngũ Thiếu Lâm.

Chí Nguyên năm thứ 12 (năm 1275) : Phúc Cốc viên tịch, sách viết có “ Tuyết Đình Hòa Thượng Ngộ Lục” được lưu truyền trong dân gian.

Hoàng Khánh năm thứ 1 (năm 1312) : Truy phong Phúc Cốc làm Tấn Quốc Công.

Thái Định năm thứ 4 (năm 1327) : Nhà sư Thiệu Nguyên của Chính Pháp Thiền Tự nước Nhật Bản đến Trung Hoa. 2 năm sau ông đến Thiếu Lâm Tự và ở đây 21 năm, giữ các chức như thư ký, chủ tọa.

Chí Chính năm thứ 11 (năm 1361): Ngày 26/3, quân khăn đỏ Dĩnh Châu tấn công Thiếu Lâm Tự, Sư Cẩn Na La cùng tăng đồ chế ngự.

Chí Chính năm thứ 21 (năm 1361) : Thiên hạ đại loạn, sư tăng Thiếu Lâm Tự còn lại vẻn vẹn khoảng hơn 20 người.

Minh

Hồng Võ năm thứ 2 (năm 1369) : Tử Nghiêm Thủy trụ trì Thiếu Lâm Tự trong thời gian 13 năm.

Hồng Võ năm thứ 25 (năm 1392) : Lai Phục viết “ Thuần Chuyết Thiền Sư Đạo Hành Chi Bia”.

Hoằng Trị năm thứ 14 (năm 1501) : Phàm Tăng nhận lời mời của Cố Mai làm trụ trì Thiếu Lâm Tự.

Chính Đức năm thứ 5 ( năm 1510) : Văn Tài trụ trì Thiếu Lâm Tự, phụng hành “ Thiền Uyển Thanh Quy”, tổng cộng 12 năm.

Chính Đức năm thứ 7 (năm 1512) : Nông dân Lưu Thị tại Bá Châu dấy binh, sư tăng Thiếu Lâm Tự phụng mệnh đi chinh phạt. Vào năm này xây Lập Tuyết Đình.

Gia Tĩnh năm thứ 1 (năm 1522) : Tháng 11, Đinh Vương Đường ở mỏ Thanh Châu – Sơn Đông dấy binh, sư tăng Thiếu Lâm Tự phụng mệnh đi chinh phạt.

Gia Tĩnh năm thứ 27 (năm 1548) : Lập tháp Tam Kỳ Chu Hữu cho võ tăng, thích danh : “ Thiên Hạ Đối Thủ, Giáo Hội Võ Tăng ”.

Gia Tĩnh năm thứ 31 (1552-1554) : Hơn 30 võ tăng Thiếu Lâm Tự phụng mệnh xuất chinh dọc miền duyên hải kháng quân xâm lược Nhật, chiến đấu hết sức anh dũng.

Gia Tĩnh năm thứ 32 ( năm 1553) : Giả Thành Viêm khởi nghĩa, võ tăng Thiếu Lâm Tự phụng mệnh chinh phạt.

Gia Tĩnh năm thứ 32 ( năm 1555) : Huy Vương Phủ xây bia phòng cho Thiếu Lâm Tự.

Gia Tĩnh năm thứ 37 (năm 1558) : Tiểu Sơn trụ trì Thiếu Lâm Tự trong thời gian 8 năm.

Gia Tĩnh năm thứ 40 (năm 1561) : Danh tướng kháng Nhật Du Đại Du đến thăm Thiếu Lâm Tự, xem biểu diễn võ nghệ. Sau đó theo học côn pháp Thiếu Lâm. Gia Tĩnh năm thứ 42 (năm 1563) : Hòa thượng Thiên trúc Biển Đốn viên tịch. Gia Tĩnh năm thứ 44 (năm 1565) : Con của Trịnh Vương là Chu Tải Dục lập “ Hỗn Nguyên Tam Giáo Cửu Lưu Đồ” tại Thiếu Lâm Tự.

Long Khánh (năm 1567-1572) : Trình Tông Du đến Thiếu Lâm Tự học võ, thời gian gần 10 năm. Cuối đời có tác phẩm “ Thiếu Lâm Côn Pháp Thiền Tông”.

Vạn Lịch năm thứ 2 ( năm 1574) : Thường Nhuận trụ trì Thiếu Lâm Tự.

Vạn Lịch năm thứ 5 ( năm 1625) : Tuần phủ Hà Nam Trình Thiệu xem võ tại Thiếu Lâm Tự, làm thơ “Thiếu Lâm Quán Võ “.

Vạn Lịch năm thứ 16 ( năm 1588) : Xây Thiên Phật Điện, cất trữ Tục Khắc Tàng Kinh do Lý Thái Hậu ban tặng.

Vạn Lịch năm thứ 37 ( năm 1609) : Vô Ngôn trụ trì Thiếu Lâm Tự trong thời gian 17 năm. Viên Hồng Đạo du Thiếu Lâm, xem biểu diễn võ thuật.

Vạn Lịch năm thứ 41 ( năm 1613) : Trần Nguyên Bân (người Hàng Châu) nhập Thiếu Lâm Tự học võ. Năm 1683 đến Nhật Bản truyền dạy Thiếu Lâm côn pháp.

Vạn Lịch năm thứ 47 (năm 1619) : Đề cử vị đô, có công trong những lần chinh chiến, lập tháp cho Tông Võ.

Sùng Trinh năm thứ 11 ( năm 1638) : Nông dân Lý Tế Ngu tại Đăng Phong khởi nghĩa.

Sùng Trinh năm thứ 14 (năm 1641) : Mùa Đông, Lý Tự Thành đưa quân vào Hà Nam. Quân của Lý Tế Ngu hợp với quân của Lý Tự Thành cùng tấn công huyện thành Đăng Phong.

Thanh

Thuận Trị năm thứ 13 (năm 1656): Hải Khoan trụ trì Thiếu Lâm Tự (Trụ trì đầu tiên đời nhà Thanh).

Khang Hy năm thứ 43 ( năm 1704) : Thánh Tổ ngự thư “Bảo Thụ Phương Liên” và “ Thiếu Lâm Tự “ (Chữ ‘Thiếu Lâm Tự” trước cổng sơn môn ngày nay).

Ung Chính năm thứ 13 (năm 1735) : Thế Tông ban lệnh trùng tu Thiếu Lâm Tự, chỉnh đốn lại cửa chính Thiếu Lâm Tự. Đầu năm Càn Long, tổng đốc Sơn Đông , tuần phủ Hà Nam Vương Sĩ Tuấn thực hiện việc trùng tu, chi phí gần chín ngàn lượng bạc.

Càn Long năm thứ 5 (năm 1740) : Tuần phủ Hà Nam Nhã Nhĩ Đồ thượng tấu “ Thiếu Lâm võ tăng nổi tiếng là do việc dạy quyền pháp, côn thuật”.

Càn Long năm thứ 12 ( năm 1747) : Thí Khiết Tán, Tiêu Như Hoành biên soạn “ Thiếu Lâm Tự chí” gồm 4 quyển, hơn 50.000 chữ Càn Long năm thứ 15 ( năm 1750) : Ngày 30/9 Cao Tông đến Thiếu Lâm Tự, đề thư, đêm tá túc tại phòng của phương trượng.

Đạo Quang năm thứ 8 (năm 1828) : Đạo viên Hà Nam Lân Khánh thay mặt tuần phủ Dương Hải Lương thăm Thiếu Lâm Tự, dự xem võ tăng dạy quyền.

Đạo Quang năm thứ 30 (năm 1850) : Chiến tranh nha phiến kết thúc. Quân chính phủ trang bị súng phóng hỏa.Võ thuật phổ biến, dân gian hóa. Chức năng võ thuật đối với tầng lớp thượng tầng xã hội chuyển sang rèn luyện sức khỏe.

Hàm Phong năm thứ 4 ( năm 1854) : Vương Tổ Nguyên đến Thiếu Lâm Tự học “ Dịch Cân Kinh”, cuối đời có tác phẩm “ Nội Công Đồ Thuyết”.

Đồng Trị năm thứ 1 (năm 1862) : Dẫn quân Tây chinh, tháng 3 và tháng 9 hai lần qua Đăng Phong.

Trung Hoa Dân Quốc

Dân Quốc năm thứ 1 (1911-1920) : Thế cục động loạn, thổ phỉ dấy binh. Thiếu Lâm Tự mua và trang bị súng phóng hỏa, đồng thời thành lập bảo vệ đoàn, hòa thượng Hằng Lâm làm Đoàn trưởng.

Dân Quốc năm thứ 4 (năm 1915) : Bộ giáo dục Chính phủ Dân quốc ra thông lệnh võ thuật là một môn được dạy ở trường học theo kiểu Tây phương.

Dân Quốc năm thứ 5 ( năm 1916) : Vương Vân Hoa trùng tu Cẩn Na La thần điện.

Dân Quốc năm thứ 12 (năm 1923) : Hằng Lâm viên tịch, đệ tử Diệu Hưng kế nhiệm.

Dân Quốc năm thứ 16 ( năm 1927) : Diệu Hưng dẫn đoàn đến Vũ Dương giao chiến với Nhậm Ứng Ba và hy sinh, bảo vệ Đoàn tứ tán.

Dân Quốc năm thứ 17 ( năm 1928) : Ngày 15/3 quân Dân Quốc do Thạch Hữu Tam cầm đầu hỏa thiêu Thiếu Lâm Tự. Thiên Vương Điện, Đại Hùng Điện, Chuông lầu, Tàng Kinh Lầu, bản gỗ “ Thiếu Lâm Tự Chí “ và Tượng đá khắc thời Bắc Triều bị hủy hoại nặng.

Dân Quốc năm thứ 17 ( năm 1928) : Chính phủ Dân Quốc cho thành lập Trung Ương Quốc Thuật Quán, phân cấp : Tỉnh, Thị, Huyện, Quán (xã). Rất nhiều quyền sư đến nhậm giáo để thực hiện “ Tông chỉ toàn dân rèn luyện sức khỏe”. Ngoài ra còn cho tiến hành thi Võ khoa, thi đấu võ thuật toàn quốc, võ thuật thi đấu bắt đầu được tiêu chuẩn hóa.

Dân Quốc năm thứ 20 ( năm 1930) : Nhà nghiên cứu võ thuật Đường Hào xuất bản “ Thiếu Lâm Võ Đang khảo”.

Dân Quốc năm thứ 35 ( năm 1946) Nước CHND Trung Hoa

Năm 1951: Lần đầu tiên Nhà nước tiến hành trùng tu Thiếu Lâm Tự

Năm 1958: Ủy ban TDTT Nhà nước Trung Quốc cử nhân sự đến Thiếu Lâm Tự để phối hợp khai thác, chỉnh lý kungfu Thiếu Lâm. Cùng năm huyện Đăng Phong trường võ Thiếu Lâm đầu tiên được thành lập, võ tăng Đức Căn của Thiếu Lâm Tự chịu trách nhiệm làm

Năm 1974: Nhà nước Trung Quốc lần đầu tiên tu chỉnh Thiếu Lâm tự với quy mô lớn, Thiếu Lâm Tự mở cửa đối với mọi người dân trong nước.

Tháng 4/1979 Năm 1979: Liên Minh Quyền Pháp Thiếu Lâm Tự Nhật Bản đến Thiếu Lâm Tự qui Tông triều Thánh.

Năm 1982: Kungfu Thiếu Lâm được coi là một bộ phận cấu thành nên văn hóa truyền thống của Trung Quốc

Tháng 7/1985: Bộ phim “Thiếu Lâm Tự” được trình chiếu, tạo nên làn sóng học tập và thưởng thức võ thuật Thiếu Lâm rộng khắp trong và ngoài nước Trung Quốc.

Tháng 12/1987: Thành lập Hội nghiên cứu quyền pháp Thiếu Lâm

Tháng 6/1989: Thành lập Đội võ thuật Thiếu Lâm, sau đó đổi tên thành Đoàn võ tăng Thiếu Lâm Tự

Tháng 6/1993: Đoàn võ tăng Thiếu Lâm Tự biểu diễn tại Tỉnh đảo Hải Nam, võ thuật (wushu) chính thức trở thành một hạng mục thi đấu tại Á vận hội.

Trụ trì Thiếu Lâm Tự - Hoà thượng Thích Vĩnh Tín dẫn Đoàn võ tăng Thiếu Lâm Tự đến biểu diễn tại Đài Loan, được nhân dân tán thưởng nhiệt liệt

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét