Thứ Năm, 22 tháng 4, 2010

Vịnh Xuân Quyền, truyền thuyết và thực tại (Phần 2)

Chương Trình và đặc điểm:

1/ Chương trình: Tại Trung Quốc và Hương Cảng, quyền thuật bao gồm ba bài quyền: Tiểu Niệm Đầu,Tầm Kiều, Tiêu Chỉ và một bài Mộc nhân thung. Ở Quảng Đông, bài Tiêu chỉ được dạy trước bài Tầm Kiều. Hai bài binh khí là bài Bát trảm đao và Lục điểm bán côn.

Tại Việt Nam, Nguyễn Tế Công để lại hai chi nhánh:

Theo Hồ Nam Long, tại thành phố Hồ Chí Minh thì chi nhánh của Nguyễn Hải tự Hồ Hai Long (1917 - 1988) truyền dạy ba bài quyền: Tiểu Niệm Đầu, Ngũ Hình Quyền và Hạc Hình Hư Bộ cùng một bài Mộc nhân thung, hai bài Bát trảm đao và Lục điểm bán côn.

Cũng theo Hồ Nam Long, tại Hà nội có chi nhánh của Ngô Sĩ Quí. Theo Hồ Tường và Ty Saem (đã có dịp thăm viến Vịnh Xuân Quyền tại Hà nội), chương trình bao gồm Thủ đầu quyền, Khí công quyền, Ngũ hình quyền tổng hợp, Long quyền, X à quyền, Hổ quyền, Báo quyền, Hạc quyền, Nhất linh bát (hay Một tám linh) và một bài Mộc nhân thung. Trong binh khí có hai bài là Bát trảm đao và Lục điểm bán công.

Tuy nhiên chỉ bài Tiểu Niệm Đầu ở Việt Nam là giống với bài Tiểu Niệm Đầu của chi phái Trung quốc và Hương Cảng. Đặc điểm của bài này là không chuyển bộ, suốt cả bài chỉ đứng thế "Nhị tự kiềm dương mã", thân thể hơi nghiêng về sau. Như tên cho thấy bài chứa đựng những thế căn bản quan trong của môn như Than thủ, Bàng thủ, Hộ thủ, Phục thủ,...Toàn bài đánh hai tay nới giản, không dùng lực, đòn thế xuất phát trên "trung tâm tuyến".

Bài Tầm Kiều lại chú trọng luyện chuyển bộ theo bộ pháp đặc biệt của môn phái. Lúc tiến theo thế "Đạp bộ", lúc địch tấn công chuyển thế "chuyển mã" dời trung tâm tuyến dẫn đòn đối thủ vào khoảng không. Đây là lý thuyết "dùng bộ pháp tìm tay (tầm kiều) đối thủ...."

Bài Tiêu Chỉ áp dụng nguyên lý "Dĩ công vi thủ" và "Dĩ đả vi tiêu"... Bài còn dẫn nhập nguyên lý "dùng eo phát lực" và "lực quán chỉ". Bài có tên "Tiêu chỉ" là vì dùng nhiều tiêu chỉ thủ (xỉa bằng đầu ngón tay).

Li thủ và Li cước:

Phương pháp Li thủ (tay dính nhau) phát triển phản xạ đôi tay. Môn sinh nhập nội tìm sơ hở đối thủ lập tức tấn công. Chủ đích đạt được trình độ hai tay đỡ không cần suy nghĩ. Tại Việt Nam phương pháp có tên là "Niêm Thủ". Li thủ bao gồm Li đơn thủ và li song thủ.

Trong phương pháp Li cước, hai người tập đứng trên một chân, dùng chân kia chạm nhau, tạo sơ hở bằng những đòn móc chân (Khấu thoái) để rồi tấn công bằng những thế đá của môn.

Mộc nhân thung: Thủ công phản biến thể hiện rõ trong bài này. Kết cấu của mộc nhân buộc người tập phải biết dùng lực mới làm rung chuyển thân của mộc nhân. Chi phái Trung quốc có hơn 160 động tác. Toàn chi phái Hương Cảng có 140 thế, sau này Diệp Vấn giảm lại còn 116 thế. Bài còn phát triển nguyên tắc "Tam giác".

Lục điểm bán côn: Cây côn sử dụng trng môn là trường côn dài ít nhất hai thước rưỡi. Bộ pháp thường dùng là Tứ bình mã và Tý ngọ mã là những bộ pháp thực dụng trong những môn phái ở Quảng Đông khác hẳn với những thế tấn đặc biệt của quyền thuật Vịnh Xuân. Côn pháp tuy giới hạn về thế căn bản nhưng lại được hỗ trợ bởi nguyên tắc "Tùy địch chi biến nhi biến", "Dĩ vô chiêu thắng hữu chiêu" và "Li côn" .

Bát trảm đao sử dụng Hồ điệp đao (Song tô). Bài chia làm tám đoạn, mỗi đoạn phân tách một thế đao chính. Cũng như côn pháp, đao pháp áp dụng nguyên tắc kiềm chế hay đánh rơi binh khí địch để nhập nội an toàn kết thúc trận đấu. Diệp Vấn chỉ truyền dạy bài nay cho bốn đệ tử nên hiện nay khó phân biệt bài nào đươcj truyền lại từ ông.

Ngoài các bài trên Vịnh Xuân còn có các phương pháp luyện bổ trợ như Đá tam tinh thung, đánh bao cát,...

Lịch sử Vịnh Xuân hỗn hợp nhiều truyền thuyết từ nhiều nguồn gốc khác nhau nên cần xem xét lại trong một khuôn khổ khác. Chi phái Diệp Vấn phổ biến hơn các chi phái khác. Là một môn phái chuyên cận chiến nên Vịnh Xuân đã phát triển tới mức độ cao phương pháp "Niêm thủ thính kình" và "Mượn lực địch để phản công".

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét